Thứ Năm, 28 tháng 11, 2013

Thị trường giao sau - Futures Market

Lược sử và tên gọi thị trường giao sau

1- Lịch sử thị trường giao sau

Người ta đã tìm thấy dấu vết, nguồn gốc của TTGS ngay từ thời Trung cổ tại Châu Âu, đó là mối quan hệ được hình thành giữa thương nhân và nông dân. Vào những năm mất mùa, người nông dân trữ hàng làm giá cả tăng cao, điều này gây khó khăn cho giới thương nhân. Ngược lại, khi bội thu, giới thương nhân lại dìm giá xuống, gây khó khăn cho người nông dân. Để tránh tình trạng đó, thương nhân và người nông dân đã gặp nhau trước mỗi vụ mùa để thỏa thuận giá cả trước. Như vậy, rủi ro về giá của cả hai bên đã được giải quyết. 
Tuy nhiên, TTGS đầu tiên trên thế giới ra đời tại thành phố Chicago (Hoa Kỳ).
Vào thập niên 40 thế kỷ XIX, Chicago đã trở thành một trung tâm thương mại lớn của Hoa Kỳ. Cũng trong thời gian đó, máy gặt McCormick đã được phát minh, giúp cho năng suất sản xuất lúa mì tại Mỹ tăng lên rất nhanh chóng. Do đó, những người nông dân trồng lúa mì từ khắp nơi đều quy tụ về Chicago để bán sản phẩm của họ. Dần dần, hoạt động này trở nên sôi nổi đến mức hầu như không đủ nhà kho chứa lúa mì của nông dân. Ngoài ra, sự tồn tại những phương pháp nghèo nàn trong việc cân và phân loại hàng hóa đã đẩy người nông dân vào tình thế phải chịu sự định đoạt củacác thương nhân. 
Tình hình có vẻ khả quan hơn, khi vào năm 1848, một trung tâm giao dịch The Chicago Board of Trade (CBOT) đã được thành lập. Ở đó, người nông dân và các thương nhân có thể mua bán trao ngay tiền mặt và lúa mì theo tiêu chuẩn về số lượng và chất lượng do CBOT qui định. Nhưng các giao dịch ở CBOT bấy giờ chỉ dừng lại ở hình thức của một chợ nông sản vì hình thức mua bán chỉ là nhận hàng – trao tiền đủ, sau đó thì quan hệ các bên chấm dứt. Trong vòng vài năm, một kiểu hợp đồng mới xuất hiện dưới hình thức là các bên cùng thỏa thuận mua bán với nhau một số lượng lúa mì đã được tiêu chuẩn hóa vào một thời điểm trong tương lai. Nhờ đó, người nông dân biết mình sẽ nhận được bao nhiêu cho vụ mùa của mình, còn thương nhân thì biết được khoản lợi nhuận dự kiến. Hai bên ký kết với nhau một hợp đồng và trao một số tiền đặt cọc trước gọi là “tiền bảo đảm”. Quan hệ mua bán này là hình thức của hợp đồng kỳ hạn (forward contract). Nhưng không dừng lại ở đó, quan hệ mua bán ngày càng phát triển và trở nên phổ biến đến nỗi ngân hàng cho phép sử dụng loại hợp đồng này làm vật cầm cố trong các khoản vay. Và rồi, người ta bắt đầu mua đi bán lại trao tay chính loại hợp đồng này trước ngày nó được thanh lý. Nếu thương nhân không muốn mua lúa mì thì họ có thể bán lại cho người khác cần nó hoặc người nông dân không muốn giao hàng thì họ có thể chuyển nghĩa vụ của mình cho người nông dân khác. Giá cả hợp đồng lên xuống dựa vào diễn biến của thị trường lúa mì. Nếu thời tiết xấu xảy đến, thì người bán lại hợp đồng đó sẽ thu được nhiều lãi vì nguồn cung hàng đang thấp đi nên giá hợp đồng sẽ tăng; nếu vụ mùa thu được nhiều hơn sự mong đợi thì người bán hợp đồng sẽ mất giá vì người ta có thể trực tiếp mua lúa mì trên thị trường tự do. Cứ như thế, các quy định cho loại hợp đồng này ngày càng chặt chẽ và người ta quên dần việc mua bán hợp đồng kỳ hạn lúa mì mà chuyển sang lập các hợp đồng giao sau (HĐGS) lúa mì. Vì chi phí cho việc giao dịch loại hợp đồng mới này thấp hơn rất nhiều và người ta có thể dùng nó để bảo hộ giá cả cho chính hàng hóa của họ. Từ đó trở đi, những người nông dân có thể bán lúa mì của mình bằng cả 3 cách: trên thị trường giao ngay, trên thị trường kỳ hạn (forward) hoặc tham gia vào TTGS (futures). 
Lịch sử phát triển của TTGS không dừng lại ở đó. Đến năm 1874, The Chicago Produce Exchange được thành lập và đổi tên thành Chicago Mercantile Exchange (CME), giao dịch thêm một số loại nông sản khác và trở thành TTGS lớn nhất Hoa Kỳ. 
Năm 1972, CME thành lập thêm The International Monetary Market (IMM) để thực hiện các loại giao dịch HĐGS về ngoại tệ. Sau đó, xuất hiện thêm các loại HĐGS tài chính khác như HĐGS tỉ lệ lãi suất (Interest rates), HĐGS về chỉ số chứng khoán… 
Ngày nay, TTGS đã vượt xa khỏi giới hạn của hợp đồng nông sản ban đầu, nó trở thành công cụ tài chính để bảo vệ các loại hàng hóa truyền thống và cũng là một trong những công cụ đầu tư hữu hiệu nhất trong ngành tài chính. TTGS hiện nay hoạt động liên tục thông qua hệ thống Globex nối liền 12 trung tâm tài chính lớn trên thế giới. Sự thay đổi giá cả của các loại hàng hóa chuyển biến từng giây một và gây ảnh hưởng không chỉ đến nền kinh tế của một quốc gia mà cả khu vực và toàn thế giới.
2- Tên gọi
Thuật ngữ HĐGS xuất phát từ thuật ngữ Commodities Futures Contract (Hợp đồng mua bán hàng hóa giao sau). Người ta gọi tên cho loại thị trường này là Commodities Futures Market hoặc Futures Market. Dần dần, trong các tài liệu chỉ sử dụng thuật ngữ Futures để chỉ loại thị trường hoặc loại hợp đồng này. Điểm lưu ý là Futures luôn có “s” ở cuối từ. Trong một số tài liệu ở trong nước có lẽ do sai sót in ấn hay nhầm lẫn đã sử dụng là Future, như vậy là sai so với thuật ngữ quốc tế. Hiện nay, các tài liệu trong nước có rất nhiều cách gọi cho loại hợp đồng này, cụ thể như : hợp đồng Future, hợp đồng Futures, hợp đồng tương lai, hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng giao sau… và khi gọi tên thị trường này thì cũng nhiều tên gọi khác nhau tương tự. 
Việc có nhiều cách gọi khác nhau cùng để chỉ một thuật ngữ là một điều bình thường, đặc biệt là trong các thuật ngữ kinh tế. Nhưng trong lãnh vực pháp lý đòi hỏi phải có một thuật ngữ chung, sử dụng thống nhất, giúp cho việc tiếp nhận thông tin nhanh chóng từ người sử dụng thuật ngữ đến người tiếp nhận, tránh tình trạng hiểu sai. 
Theo pháp luật Việt Nam qui định thì chỉ sử dụng thuật ngữ có phiên âm nước ngoài khi chưa có thuật ngữ thay thế hoặc chưa được Việt hóa. Vì vậy các văn bản pháp lý sẽ chỉ sử dụng các thuật ngữ tiếng Việt. Chúng tôi nhận thấy việc sử dụng thuật ngữ dịch từ thuật ngữ nước ngoài hiện nay ở Việt Nam có sự tham khảo bởi nhiều ngôn ngữ khác nhau. Thuật ngữ “hợp đồng tương lai” chẳng qua là do dịch từ Future, nhưng như đã nói, thuật ngữ quốc tế sử dụng là Futures. Các nước nói tiếng Pháp thì sử dụng thuật ngữ “le contrat à terme” để chỉ “futures contract”; “le contrat à terme ferme” để chỉ cho “forward contract”. Khi dịch các thuật ngữ trên sang tiếng Việt, do không có sự thống nhất nên dẫn đến có hai cách gọi là “hợp đồng kỳ hạn” và “hợp đồng giao sau” cho cả hai loại hợp đồng này; không có sự tách bạch cụ thể, đâu là “hợp đồng giao sau”, đâu là “hợp đồng kỳ hạn”. Hiện nay, các nhà kinh doanh thì gọi “hợp đồng kỳ hạn” để chỉ cho cả hợp đồng futures và hợp đồng forward. Còn các nhà nghiên cứu, các sách, giáo trình tài chính thì sử dụng thuật ngữ “hợp đồng kỳ hạn” cho loại Forward contract – le contrat à terme ferme; “hợp đồng giao sau” cho thuật ngữ Futures contract – le contrat à terme. Mặt khác, trong các đề tài nghiên cứu, văn bản của Viện Thương mại, Bộ Thương mại trình Chính phủ cũng sử dụng thuật ngữ “thị trường giao sau”, “hợp đồng giao sau” để chỉ cho loại quan hệ này, nên chúng tôi cũng lựa chọn thuật ngữ này trong đề tài nghiên cứu của mình. 
Tham khảo thêm

Giao dịch quyền chọn - Option

Options hay quyền chọn là một lĩnh vực khá phức tạp trong giao dịch ngoại hối. 
Options đúng như tên gọi của nó cho người mua quyền nhưng không phải nghĩa vụ mua hay bán một loại tiền tệ. 
Options cung cấp cho nhà đầu tư một sự linh hoạt chưa từng có trong giao dịch.  
Options không chỉ cho phép nhà đầu tư đón đầu xu thế của một đồng tiền mà nó còn cho phép giới hạn rủi ro thua lỗ. 
Bạn có thể kiếm được lợi nhuận từ options với bất cứ chiều nào của biến động giá: giá lên, giá xuống hay thậm chí là giá không biến động.
Chúng ta sẽ bắt đầu với loại options tiêu chuẩn trong mục này nhằm giúp bạn có được hiểu biết cơ bản để bắt đầu giao dịch option. Options tiêu chuẩn hay còn gọi là vanilla options bởi vì chúng rõ ràng, đơn giản và không có quá nhiều khúc mắc. 
Trong những mục sau, chúng ta sẽ thảo luận về exotic options( options lai)- loại options với những điều khoản riêng chỉ áp dụng được cho một số trường hợp đặc biệt.
Vanilla options gồm có hai loại là call options và put options. Call options cho bạn quyền nhưng không phải nghĩa vụ để mua một cặp đồng tiền tại một mức giá nhất định trước và tại một ngày định trước trong tương lai. Put options cho bạn quyền nhưng không phải nghĩa vụ để bán một cặp đồng tiền tại một mức giá nhất định trước và tại một ngày định trước trong tương lai. 
Bạn có quyền mua hoặc bán call và put options. Nếu bạn nghĩ rằng một đồng tiền sẽ tăng giá trong tương lai, bạn có thể hoặc là mua một hợp đồng call option hoặc là bán một hợp đồng put option để kiếm được lợi nhuận. Nếu bạn nghĩ rằng một đồng tiền sẽ giảm giá trong tương lai, bạn có thể hoặc là hoặc là mua một hợp đồng put option để kiếm được lợi nhuận bán một hợp đồng call option.
Việc quan trọng bây giờ là bạn biết được những gì là cơ bản nhất của option và cách thức giao dịch. Hãy dành một ít thời gian để làm quen với những điều sau:


Đặc điểm của option
Option là một công cụ giao dịch độc đáo và đa chiều. Option cho phép bạn có được sự linh hoạt lớn trong quá trình đầu tư. Nếu bạn muốn thành công trong việc áp dụng option trong danh mục đầu tư của mình, bạn cần phải biết những đặc điểm riêng có của option. 
Mỗi một hợp đồng vanilla option đều có 3 điểm cần có sau:
Strike price ( Giá thực hiện): đây là giá mà tại đó bạn có thể mua một cặp đồng tiền ( nếu bạn mua một hợp đồng call option hay bán một hợp đồng put option) hay giá mà tại đó bạn có thể bán một cặp đồng tiền ( nếu bạn đã mua một hợp đồng put option hay bán một hợp đồng call option) 
Ngày hết hạn: đây là ngày mà hợp đồng option hết hạn hay hết giá trị nếu bên mua không thực hiện quyền. 
Phí option (Premium): đây là mức phí mà bạn phải trả cho khi bạn mua một hợp đồng option hay mức phí bạn được nhận khi bán một hợp đồng option.
Ví dụbạn mua một hợp đồng call option trên cặp EURUSD với giá thực hiện là 1.4000 và ngày hết hạn hợp đồng là 21 tháng 12 với mức phí là 1800USD. Việc này có nghĩa là bạn trả 1800USD để có quyền mua EURUSD tại tỷ giá 1.4000 vào ngày 21 tháng 12. Lưu ý tài sản cơ sở trong trường hợp này là cặp EURUSD.
Giá trị của một hợp đồng option
Giá trị của một hợp đồng option gồm có hai phần: giá trị nội tại và giá trị thời gian
Giá trị nội tại: đây là thuật ngữ dùng để chỉ giá của tài sản cơ sở trừ đi giá thực hiện(đối với hợp đồng call option) và bằng giá của tài sản cơ sở cộng giá thực hiện (đối với hợp đồng put option). Về lý thuyết, phải sử dụng tỷ giá forward để tính toán thay vì giá giao ngay nhưng theo thông lệ thị trường thì giá giao ngay được dùng để tính toán.
Giá trị nội tại = Giá giao ngay – Giá thực hiện (nếu là call options)
Giá trị nội tại = Giá thực hiện - Giá giao ngay (nếu là put options)


Giá trị thời gian: Nói một cách đơn giản, giá trị thời gian của một hợp đồng option là khoản giá trị mà tại đó giá trị của hợp đồng option lớn hơn giá trị nội tại. Sự biến động của tài sản cơ sở có một mối liên hệ quan trọng với giá trị thời gian. Giá trị thời gian tăng khi biến động tăng. Như đã đề cập trước đây, lợi nhuận của việc nắm giữ hợp đồng option là vô hạn trong khi lỗ chỉ giới hạn trong phần phí option. Do đó, một hợp đồng option trên tài sản cơ sở biến động lớn thì có khả năng mang lại lợi nhuận cao hơn một hợp đồng option trên một tài sản cơ sở ít biến động.
Sự khác biệt giữa lãi suất của hai đồng tiền cũng là một yếu tố cần được xem xét khi định giá option và cũng được tính vào giá trị thời gian của hợp đồng option.
Đồ thị dưới đây biểu thị cách mà một hợp đồng call option được định giá dựa trên việc giá tài sản cơ sở gần với giá thực hiện của hợp đồng option. 
Ví dụ: bạn mua một hợp đồng Call option EURUSD 1 tháng với giá thực hiện là 1.2000, giá EURUSD tăng lên mức 1.2155. Hợp đồng option trị giá 225 điểm trước khi hết hạn 30 ngày trong đó giá trị nội tại trong trường hợp này là 1.2155-1.2000 là 155 điểm và giá trị thời gian được tính toán là 70 điểm.
Các chữ cái Hy Lạp
Giá của một hợp đồng option ảnh hưởng bởi 5 yếu tố, mỗi yếu tố đều có một tên Hy Lạp đại diện. Chúng ta sẽ xem xét các chữ cái này một cách cơ bản nhất.
Delta
Biểu thị khi giá trị của tài sản cơ sở thay đổi 1 đơn vị thì giá trị của hợp đồng option thay đổi delta đơn vị, giả định rằng các yếu tố khác ảnh hưởng tới giá của option không đổi. Giá trị delta của hợp đồng option có thể được coi như là giá trị bảo hiểm cần thiết cho sự thay đổi của giá giao ngay tài sản cơ sở.
Gamma
Biểu thị khi giá trị của tài sản cơ sở thay đổi 1 đơn vị thì giá trị của delta thay đổi gamma đơn vị. Vì vậy, gamma cũng dùng để biểu thị bạn nên thay đổi việc bảo hiểm trạng thái như thế nào để duy trì delta không thay đổi khi giá giao ngay của tài sản cơ sở thay đổi. Tất cả những hợp đồng option tiêu chuẩn, bất kể là call hay put đều có gamma dương. 
Trạng thái gamma cũng cung cấp nhận định của nhà đầu tư về độ biến động của tài sản cơ sở, trạng thái long gamma biểu thị việc dự đoán thị trường sẽ biến động trong khi đó trạng thái short gamma biểu thị nhà đầu tư dự đoán thị trường sẽ không giao động.
Theta
Biểu thị sự thay đổi trong giá trị của hợp đồng option khi thời gian qua đi và giả định là các yếu tố khác không đổi. Sự thay đổi này xuất phát từ việc thời gian tới ngày đáo hạn của hợp đồng option càng ngày càng ngắn khi thời gian trôi qua. Sự thay đổi trong giá trị này cũng thường được hiểu như là việc nhà đầu tư bị mất tiền khi thời gian trôi qua. Theta thưởng được ghi nhận bằng việc mất bao nhiêu điểm trong giá trị khi một ngày trôi qua.
Vega
Biểu thị sự thay đổi trong giá trị của option khi sự biến động thay đổi. Độ biến động là việc giao động nhiều hay ít của tài sản cơ sở, đây là nền tảng trong việc định giá option. Biến động lớn cho thấy tài sản cơ sở có nhiều khả năng tiếp cận các mức giá cao nhất hay thấp nhất. Khi người mua hợp đồng option chỉ bị lỗ giới hạn trong mức phí option, còn lại là lời vô hạn nếu giá tăng. Do đó, một sự tăng trong biến động của tài sản cơ sở sẽ làm tăng giá trị của hợp đồng option. Giá trị của vega sẽ lớn hơn khi hợp đồng option gần với tình trạng ATM và thời gian đến hạn của nó dài.
**ATM= at the money chỉ việc giá thực hiện bằng với giá giao ngay của tài sản cơ sở.
Rho
Biểu thị mức độ nhạy cảm của giá hợp đồng option dựa trên mô hình Black-Scholes với sự thay đổi của lãi suất. Chính vì vậy, Rho không bao gồm ảnh hưởng của thay đổi lãi suất lên tỷ giá hối đoái. Với hợp đồng option ngoại hối, giá trị của chúng dựa trên cả lãi suất của đồng tiền yết giá và đồng tiền định giá.
Người mua option và người bán option
Nhà giao dịch các hợp đồng option có thể là người mua hoặc là người bán. Người mua option có thể là mua hợp đồng call option hoặc put option. Người bán option cũng có thể bán hợp đồng call option hay put option. Quyết định mua hay bán một hợp đồng option dựa trên việc nhận định thị trường sẽ tăng giá hay giảm giá.
Chúng ta có thể kiếm tiền với hợp đồng option ngoại hối trong bất cứ trường hợp nào: giá lên, giá xuống hoặc giá giao động trong biên độ.
  • Giá lên – Nếu các phân tích cơ bản và kỹ thuật cho biết giá sẽ tăng, thì bạn có thể mua một hợp đồng call option hay bán một hợp đồng put option. 
  • Giá xuống – Nếu các phân tích cơ bản và kỹ thuật cho biết giá sẽ giảm, thì bạn có thể mua một hợp đồng put option hay bán một hợp đồng call option. 
  • Giá giao động trong biên – Nếu các phân tích cơ bản và kỹ thuật cho biết giá sẽ chỉ giao động trong biên độ, thì bạn có thể bán một hợp đồng call option hay bán một hợp đồng put option.
Mua một hợp đồng call hay put option cho phép bạn có được lợi nhuận giả định là vô hạn nếu giá lên (đối với hợp đồng call option), nếu giá xuống(đối với hợp đồng put option). Tuy nhiên, cặp đồng tiền PHẢI chạy đủ xa để vượt qua mức phí bạn trả ban đầu.
Bán một hợp đồng call hay put option cho phép bạn có được lợi nhuận nếu giá giao ngay dưới giá thực hiện( đối với hợp đồng call option) , nếu giá giao ngay trên giá thực hiện (đối với hợp đồng put option). Tuy nhiên, nếu giá của tài sản đảm bảo không vượt qua được giá thực hiện, bạn có thể mất nhiều tiền hơn là mức phí bạn nhận được khi bán option.
Trước khi xem xét các trường hợp hãy cùng định nghĩa các thuật ngữ:
- Đường lãi/lỗ: là đường biểu thị mức lãi hay lỗ bạn nhận được tại một mức giá nhất định trên đồ thị. 
- Giá thực hiện: là mức giá tại đó người mua thực hiện quyền. Giá này được biểu thị bằng điểm A trên đồ thị. Nhớ rằng, với hợp đồng call thì lợi nhuận có được khi giá giao ngay trên giá thực hiện và hợp đồng put thì lợi nhuận có được khi giá giao ngay dưới mức giá thực hiện. 
- Điểm hoà vốn: Là điểm mà tại đó bạn không lời cũng không lỗ trên hợp đồng option. Điểm hoà vốn được biểu thị bằng điểm B trên đồ thị. Nhớ rằng điểm hoà vốn cho hợp đồng call luôn nằm trên giá thực hiện trong khi đó điểm hoà vốn cho hợp đồng put luôn nằm dưới giá thực hiện.
Hãy cùng nhìn qua các trường hợp mua hoặc bán option nếu giá của tài sản giao động
Mua một hợp đồng Call option
Mua một hợp đồng call option hay còn gọi là long một hợp đồng call option là việc đầu cơ giá lên, có nghĩa là khi thực hiện việc này nhà đầu tư kỳ vọng giá của tài sản cơ sở sẽ lên. 
Tuy nhiên, không phải lúc nào giá cũng chạy theo ý của bạn do đó bạn cần phải biết các trường hợp nào sẽ xảy ra với hợp đồng call option của bạn.
Một tài sản hay một cặp đồng tiền có thể giao động theo 5 cách sau:
* Giá tăng mạnh 
* Giá tăng nhẹ 
* Giá không giao động 
* Giá giảm nhẹ 
* Giá giảm mạnh
** Với trường hợp giá tăng mạnh :
Khi bạn mua một hợp đồng call option thì khi giá lên mạnh, bạn sẽ có được lợi nhuận rất nhiều. Mỗi một điểm tính từ mốc giá hoà vốn tăng thêm sẽ mang thêm lợi nhuận cho bạn. 
Có thể nhìn rõ qua đồ thị sau:
** Với trường hợp giá tăng nhẹ:
Khi bạn mua một hợp đồng call option thì khi giá lên nhẹ, không vượt qua được mức giá hoà vốn ( là mức giá có tính phần phí option bạn phải trả) bạn chỉ có thể tối thiểu hoá thua lỗ của mình. Mỗi một điểm tính từ mức giá thực hiện tăng thêm sẽ giảm thua lỗ cho bạn. 
Có thể nhìn rõ qua đồ thị sau, phần ô vuông màu xanh là khi giá lên nhưng không đủ mang lại lợi nhuận cho bạn:
** Với trường hợp giá không giao động, giá giảm nhẹ hay giá giảm mạnh :
Khi bạn mua một hợp đồng call option thì với 3 trường hợp trên, bạn sẽ bị lỗ có hạn chính là mức phí option mà bạn phải trả do bạn không thực hiện quyền. 
Có thể nhìn rõ qua 3 đồ thị sau, phần ô vuông chính là mức phí bạn phải trả và cũng là thua lỗ của bạn.
Giá không giao động
Giá dao động mạnh
Giá dao động nhẹ
Tóm lại,
Hướng thay đổi của giáKết quả
Tăng mạnhTối đa hóa lợi nhuận
Tăng nhẹTối thiểu hóa thua lỗ
Không giao độngLỗ có hạn phần phí Option
Giảm nhẹLỗ có hạn phần phí Opion
Giảm mạnhLỗ có hạn phần phí Option 
Mua một hợp đồng Put option
Mua một hợp đồng put option hay còn gọi là long một hợp đồng put option là việc đầu cơ giá xuống, có nghĩa là khi thực hiện việc này nhà đầu tư kỳ vọng giá của tài sản cơ sở sẽ xuống. 
Tuy nhiên, không phải lúc nào giá cũng chạy theo ý của bạn do đó bạn cần phải biết các trường hợp nào sẽ xảy ra với hợp đồng call option của bạn. 
Một tài sản hay một cặp đồng tiền có thể giao động theo 5 cách sau:
* Giá tăng mạnh 
* Giá tăng nhẹ 
* Giá không giao động 
* Giá giảm nhẹ 
* Giá giảm mạnh
** Với trường hợp giá không giao động, giá tăng nhẹ hay giá tăng mạnh :
Khi bạn mua một hợp đồng put option thì với 3 trường hợp trên, bạn sẽ bị lỗ có hạn chính là mức phí option mà bạn phải trả. 
Có thể nhìn rõ qua 3 đồ thị sau, phần ô vuông chính là mức phí bạn phải trả và cũng là thua lỗ của bạn.
Giá tăng mạnh
Giá tăng nhẹ
Giá không bến động
** Với trường hợp giá xuống nhẹ :
Khi bạn mua một hợp đồng put option thì khi giá xuống yếu, không vượt qua được mức giá hoà vốn( là mức giá có tính phần phí option bạn phải trả) bạn chỉ có thể tối thiểu hoá thua lỗ của mình. Mỗi một điểm tính từ mức giá thực hiện giảm thêm sẽ giảm thua lỗ cho bạn. 
Có thể nhìn rõ qua đồ thị sau, phần ô vuông màu xanh là khi giá xuống nhưng không đủ mang lại lợi nhuận
** Với trường hợp giá giảm mạnh :
Khi bạn mua một hợp đồng put option thì khi giá xuống mạnh, bạn sẽ có được lợi nhuận rất nhiều. Mỗi một điểm tính từ mốc giá hoà vốn giảm thêm sẽ mang thêm lợi nhuận cho bạn. 
Có thể nhìn rõ qua đồ thị sau:
Tóm lại,
Hướng thay đổi của giáKết quả
Tăng mạnhLỗ có hạn phần phí Option
Tăng nhẹLỗ có hạn phần phí Option
Không giao độngLỗ có hạn phần phí Option
Giảm nhẹTối thiểu hóa thua lỗ
Giảm mạnhTối đa hóa lợi nhuận
Bán một hợp đồng Call option
Bán một hợp đồng call option hay short một hợp đồng call option là việc đầu cơ giá xuống nghĩa là nhà đầu tư vào trạng thái này khi nghĩ rằng giá của tài sản cơ sở sẽ giảm. Nếu giá của tài sản hay cặp đồng tiền giảm bạn có thể có được lợi nhuận từ việc bán hợp đồng call option này. 
Tuy nhiên, không phải lúc nào giá cũng chạy theo ý của bạn do đó bạn cần phải biết các trường hợp nào sẽ xảy ra với hợp đồng call option của bạn. 
Một tài sản hay một cặp đồng tiền có thể giao động theo 5 cách sau:
* Giá tăng mạnh 
* Giá tăng nhẹ 
* Giá không giao động 
* Giá giảm nhẹ 
* Giá giảm mạnh
** Đối với trường hợp giá tăng mạnh:
Khi bạn bán một hợp đồng call option và giá của tài sản hay cặp đồng tiền tăng mạnh thì bạn sẽ bị lỗ vô hạn trên hợp đồng này. Mỗi một điểm tăng thêm so với giá hoà vốn của hợp đồng sẽ khiến bạn mất thêm tiền. 
Bạn có thể thấy điều này qua đồ thị sau:
** Đối với trường hợp giá tăng nhẹ:
Khi bạn bán một hợp đồng call option và giá của tài sản hay cặp đồng tiền tăng nhẹ thì bạn sẽ bị giảm mức lợi nhuận trên hợp đồng này. Mỗi một điểm tăng thêm so với giá thức hiện của hợp đồng sẽ làm lợi nhuận của bạn mất thêm tiền.  
Bạn có thể thấy điều này qua đồ thị sau:
** Đối với trường hợp giá không giao động, giá giảm nhẹ hoặc giá giảm mạnh:
Khi bạn bán một hợp đồng call option và giá của tài sản hay cặp đồng tiền không tăng giảm hay giảm nhẹ hay giảm mạnh thì có nghĩa là bạn đang tối đa hoá mức lợi nhuận trên hợp đồng này. Khi bạn bán một hợp đồng call option nghĩa là bạn được nhận trước một khoản phí và do giá không biến động hoặc giảm nhẹ hoặc giảm mạnh thì người mua hợp đồng call option sẽ không thực hiện quyền do đó thì bạn sẽ giữ được mức lợi nhuận của mình. 
Bạn có thể thấy được điều đó qua đồ thị sau:
Giá không giao động
Giá giảm nhẹ
Giá giảm mạnh
Tóm lại,
Hướng thay đổi của giáKết quả
Tăng mạnhLãi có hạn phần phí Option
Tăng nhẹLãi có hạn phần phí Option
Không giao độngLãi có hạn phần phí Option
Giảm nhẹTối thiểu hóa mức lỗ
GiảmmạnhLỗ vô hạn
Bán một hợp đồng Put option
Bán một hợp đồng put option hay short một hợp đồng put option là việc đầu cơ giá lên nghĩa là nhà đầu tư vào trạng thái này khi nghĩ rằng giá của tài sản cơ sở sẽ lên. Nếu giá của tài sản hay cặp đồng tiền lên bạn có thể có được lợi nhuận từ việc bán hợp đồng put option này. 
Tuy nhiên, không phải lúc nào giá cũng chạy theo ý của bạn do đó bạn cần phải biết các trường hợp nào sẽ xảy ra với hợp đồng call option của bạn. 
Một tài sản hay một cặp đồng tiền có thể giao động theo 5 cách sau:
* Giá tăng mạnh 
* Giá tăng nhẹ 
* Giá không giao động 
* Giá giảm nhẹ 
* Giá giảm mạnh
** Đối với trường hợp giá tăng mạnh, giá tăng nhẹ hoặc không biến động:
Khi bạn bán một hợp đồng put option và giá của tài sản hay cặp đồng tiền tăng mạnh , tăng nhẹ hoặc không biến động thì bạn sẽ tối đa hoá được mức lời có hạn là phần phí option bạn nhận được trên hợp đồng này. Khi bạn bán một hợp đồng put option nghĩa là bạn được nhận trước một khoản phí và do giá tăng mạnh hay tăng nhẹ hay không biến động khiến giá chưa qua mức hoà vốn người mua hợp đồng put option sẽ không thực hiện quyền do đó thì bạn sẽ giữ được mức lợi nhuận của mình. 
Bạn có thể thấy điều đó qua đồ thị sau:
Giá tăng mạnh
Giá tăng nhẹ
Giá không biến động
** Đối với trường hợp giá giảm nhẹ:
Khi bạn bán một hợp đồng put option và giá của tài sản hay cặp đồng tiền giảm nhẹ thì bạn sẽ bị giảm mức lợi nhuận trên hợp đồng này. Mỗi một điểm giảm thêm so với giá thực hiện của hợp đồng sẽ làm lợi nhuận của bạn mất thêm. 
Bạn có thể thấy điều này qua đồ thị sau:
** Đối với trường hợp giá giảm mạnh:
Khi bạn bán một hợp đồng put option và giá của tài sản hay cặp đồng tiền giảm mạnh thì bạn sẽ bị lỗ vô hạn trên hợp đồng này. Mỗi một điểm giảm thêm so với giá hoà vốn của hợp đồng sẽ khiến bạn mất thêm tiền. 
Bạn có thể thấy điều này qua đồ thị sau:
Tóm lại,
Hướng thay đổi của giáKết quả
Tăng mạnhLãi có hạn phần phí Option
Tăng nhẹLãi có hạn phần phí Option
Không giao độngLãi có hạn phần phí Option
Giảm nhẹTối thiểu hóa mức lỗ
Giảm mạnhLỗ vô hạn

Tham khảo thêm

Thứ Ba, 26 tháng 11, 2013

Ảnh hưởng của sự Độc Quyền

Độc quyền, trong kinh tế học, là trạng thái thị trường chỉ có duy nhất một người bán và sản xuất ra sản phẩm không có sản phẩm thay thế gần gũi. Trong tiếng Anh monopoly có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp monos (nghĩa là một) và polein (nghĩa là bán). 

Đây là một trong những dạng của thất bại thị trường, là trường hợp cực đoan của thị trường thiếu tính cạnh tranh. 


Mặc dù trên thực tế hầu như không thể tìm được trường hợp đáp ứng hoàn hảo hai tiêu chuẩn của độc quyền và do đó độc quyền thuần túy có thể coi là không tồn tại nhưng những dạng độc quyền không thuần túy đều dẫn đến sự phi hiệu quả của lợi ích xã hội. 

Độc quyền được phân loại theo nhiều tiêu thức: mức độ độc quyền, nguyên nhân của độc quyền, cấu trúc của độc quyền... 
Nguyên nhân chính dẫn đến độc quyền thường
Chính phủ nhượng quyền khai thác tài nguyên nào đó: chính quyền địa phương có thể nhượng quyền khai thác rác thải cho một công ty nào đó hay nhà nước tạo ra cơ chế độc quyền nhà nước cho một công ty như trường hợp chính phủ Anh trao độc quyền buôn bán với Ấn độ cho Công ty Đông Ấn. 
Nếu chi phí vận chuyển quá cao, thị trường có thể bị giới hạn trong một khu vực kinh tế nhất định nào đó và nếu trong khu vực đó có một doanh nghiệp cung cấp sản phẩm thì sẽ dẫn đến tình trạng gần như chiếm đoạt quyền trong kinh doanh. 
Chế độ sở hữu đối với phát minh, sáng chế và sở hữu trí tuệ: một mặt chế độ này làm cho những phát minh, sáng chế tăng theo một thời gian nhất định nhưng mặt khác nó tạo cho người nắm giữ bản quyền có thể giữ được vị trí độc tôn trong thời hạn được giữ bản quyền theo quy định do những văn bản do nhà nước ban hành. 
Do sở hữu được một nguồn lực lớn: điều này giúp cho người nắm giữ có vị trí gần như trọn vẹn trên thị trường. Một ví dụ điển hình là Nam Phi được sở hữu những mỏ kim cương chiếm phần lớn sản lượng của thế giới và do đó quốc gia này có vị trí gần như đứng đầu trên thị trường kim cương.
Tổn thất phúc lợi xã hội do độc quyền thường gây ra
Do tối đa hóa doanh thu nên doanh nghiệp chiếm đoạt quyền sẽ sản xuất hàng hóa ở mức sản phẩm mà tại đó doanh thu biên bằng với thu nhập biên thay vì sản xuất ở mức sản lượng mà ở đó giá sản phẩm cao hơn nhiều chi phí biên như trong thị trường (cân bằng cung cầu). 
Khác với thị trường cạnh tranh hoàn hảo, nơi mà giá bán sản phẩm phụ thuộc vào số lượng sản phẩm do một doanh nghiệp sản xuất ra, trong tình trạng chiếm đoạt quyền giá bán sẽ tăng lên khi doanh nghiệp chiếm đoạt quyền giảm sản lượng. Vì thế lợi nhuận biên sẽ lớn hơn giá bán sản phẩm và cứ một đơn vị sản phẩm sản xuất thêm doanh nghiệp chiếm đoạt quyền sẽ thu thêm được một khoản tiền lớn hơn giá bán sản phẩm đó. 
Điều này có nghĩa là nếu cứ sản xuất thêm sản phẩm thì doanh thu thu thêm được có thể đủ bù đắp tổn thất do giá bán của tất cả sản phẩm giảm xuống. 
Mặt khác, nếu áp dụng nguyên tắc biên của tính hiệu quả nghĩa là sản xuất sẽ đạt hiệu quả khi lợi ích biên bằng doanh thu biên, tất nhiên lợi ích biên và chi phí biên ở đây xét trên góc độ xã hội chứ không phải đối với doanh nghiệp độc quyền ta thấy rằng: ở mức sản lượng mà doanh nghiệp chiếm đoạt quyền sản xuất thì lợi ích biên (chính là đường cầu) lớn hơn chi phí biên đồng nghĩa với tình trạng không hiệu quả. 
Tóm lại, doanh nghiệp chiếm đoạt quyền sẽ sản xuất ở sản lượng thấp hơn và bán với giá cao hơn so với thị trường cạnh tranh. 
Tổn thất mà xã hội phải gánh chịu do sản lượng tăng lên trừ đi tổng chi phí biên để sản xuất ra phần sản lượng đáng lẽ nên được sản xuất ra thêm đó chính là tổn thất do chiếm đoạt quyền. 
Là người tiêu dùng
1- Bạn có muốn sử dụng 1 sản phẩm - dịch vụ chất lượng thấp mà giá thành cao không ? 
2- Bạn có muốn là 1 thượng đế bị buộc phải chiều chuộng theo những yêu cầu vô lý của đơn vị cung cấp sản phẩm - dịch vụ không ? 
3- Bạn có muốn đơn vị cung cấp sản phẩm - dịch vụ vi phạm quyền công dân của bạn không ?
Ở Việt Nam, người tiêu dùng bị ép buộc phải đồng ý với 3 câu hỏi trên, các đơn vị độc quyền còn được sự ủng hộ từ Luật, Nghị định, Văn bản luật ... nhằm triệt tiêu quyền lợi chính đang của Người Tiêu Dùng !
Trước khi đưa ra ý kiến phản đối điều này, bạn hãy nhìn lại:
1- Thị trường viễn thông, internet ... 
2- Thị trường Điện, Nước, Dịch vụ công ích ... 
3- Xăng dầu ... 
4- Truyền thông ...
Và bạn hãy nhìn lại 1 số thị trường đã có những đơn vị tư nhân tham gia làm đối trọng với các đơn vị độc quyền như:
1- Giáo dục ... 
2- Y tế ... 
3- Thương mại, dịch vụ, sản xuất, xây dựng ... 
4- Tài chính ... 
Tham khảo thêm 
=> www.jimmy-group.blogspot.com/2013/08/dich-vu-tu-van-luot-song-vang-sjc-sbv.html  

Chủ Nhật, 24 tháng 11, 2013

Jimmy Group bán vàng ngày 25-11-2013

Jimmy Group khuyến nghị các thành viên bắt đầu bán vàng kể từ ngày 25-11-2013 khi giá vàng thế giới có tín hiệu giảm nhẹ thêm một nhịp để tăng mạnh sau đó từ vùng giá 1243-1247 usd/ounce; tương ứng với giá phi SJC là 32,640 triệu đồng/lượng và giá SJC là 35,870 triệu đồng/lượng.
Nhu cầu sử dụng vàng 24k trong nước hiện nay là: 2,331,811 ounce tương đương 72,53 tấn
Tư vấn kinh doanh vàng: 01992 1111 99

Tham khảo thêm